Dân chủ chiếm thế thượng phong: lợi thế của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc


 


Dân chủ chiếm thế thượng phong: lợi thế của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc

 Với  một dân số khổng lồ  của China cộng với tốc độ kinh tế tăng trưởng nhanh,  Bắc Kinh có thể sẽ sớm đánh bật vị thế của Washington để thành bá chủ Á châu. Ví dụ, báo The Economist dự đoán rằng China có thể vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới  vào năm 2021. Hơn nữa, chúng ta biết rằng sức mạnh quân sự thường đi theo sức nặng kinh tế. Việc tăng cường quân sự đang diễn ra của Bắc Kinh đã giới hạn khả năng của Mỹ trong việc triển khai quyền lực tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nếu China  đi theo bước chân của Washington trong việc đầu tư vào khả năng thiết lập sức mạnh toàn cầu, có lẽ chừng vài chục năm tới, người ta có thể hình dung nó sẽ  chiếm  lấy  sức mạnh quân sự toàn cầu tuyệt đối từ trong tay Washington.
Có hẳn thế không ?  Để tìm cho ra câu tr ả lời trong việc China có trở thành  thế lực mạnh nhất thế giới hay không, không chủ yếu nằm trong lĩnh vực kinh tế hay quân sự. Điều đáng chú ý hơn lại chính ở tại các cơ cấu chính trị trong  nước. Chính các cơ cấu này đề xuất ra một câu trả lời jhả dĩ mơ hồ  cho câu hỏi liệu China có thành quốc gia đứng đầu thế giới hay không.  Nhiều nhà lý thuyết chính trị tây phương  nhận định  rằng các quốc gia  được cai trị trên nền tảng cơ chế dân chủ thường hành xử tốt hơn trong các cuộc thi đua chính trị dài hạn, và các nghiên cứu về khoa học xã hội cũng đồng tình. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia vượt trội nhất trong vài thế kỷ vừa qua như Anh Quốc và Hoa Kỳ đã ở trong số quốc gia dân chủ nhất. Trong khi đó, các đối thủ độc tài của họ như Đế quốc Đức (kế tiếp là Quốc Xã Nazi) và Liên Xô cuối cùng phải sụp đổ tan tành. Tương tự. các cơ cấu của Hoa Kỳ đang là lợi điểm cạnh tranh chủ yếu trong cuộc đối đầu sắp tới với Trung Cộng. Khác biệt với uy thế đang lên của Trung Cộng, người ta có nhiều lý do để tin rằng cái kỷ nguyên Hoa Kỳ tiếp tục tồn tại, và có khi còn có thể cho rằng Hoa Thịnh Đốn không những không hoan nghênh, mà còn lo sợ Trung Cộng có một chuyển biến dân chủ trong tương lai.
Quan niệm rằng quốc gia có  hình thức chính quyền mang tính đại diện có thể duy trì quyền lực hữu hiệu hơn những chế độ không đại diện dân là một quan niệm kiên trì. Các nhà lý luận cổ điển thường vạch rõ một sự phân biệt giữa khái niệm dân chủ, một hình thức thái hoá của khái niệm chính quyền với đặc điểm “cai trị bởi quần chúng”, và khái niệm cộng hoà, một hệ thống pha trộn với đặc điểm quần chúng tham gia nhưng đại biểu cai trị, một hình thức tương đồng hơn với các khuôn mẫu dân chủ đương thời. Polybious, Montesquieu và Machiavelli đều cùng đề xuất  những lợi ích  có thể có của các hình thái chính thể cộng hoà, và cùng nhận định rằng chính các cơ chế chính trị nội tại của La Mã đã là động lực chính yếu cho những thời kỳ thăng trầm của đế quốc La Mã.
Theo dòng lịch sử, Polubious đã viết lên lịch sử La Mã, thế nhưng mục đích chính của ông chỉ nhằm giải thích các nguồn gốc tạo nên sự thành công của nó. Ông viết: “Phần đáng ca ngợi và mang tính giáo dục nhất của chủ đề này của tôi  là cho người đọc hiểu biết làm sao, và nhờ vào hệ thống chính trị nào, một biến cố chưa có tiền lệ xảy ra: đó là sự chiến thắng hầu như toàn thế giới được biết đến khi đó, trong một thời hạn dưới  53 năm chỉ  dưới tay  một kẻ cai trị La Mã?” Polybious giải thích ngay: “Nguyên chính dẫn đến hoặc thành công hay thất bại là cái bản chất của hệ thống chính quyền của nhà nước đó.” Theo Polybious, chính cái cơ chế chính trị của La Mã là sức mạnh cho phép nó trở nên vô địch và khống chế thế giới xung quanh.
Nếu người ta nghĩ rằng, để trở thành một nhà lãnh đạo đẳng cấp thế giới có uy quyền và đế quốc sâu rộng, một trung tâm điểm của thế giới, vậy thì họ phải thú nhận rằng cái cơ chế của Spartan rất thiếu sót, còn cơ chế La Mã siêu việt và năng động hơn. Các dữ kiện của cả hai thể chế chứng tỏ sự thật này.
Trong tác phẩm “Nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến sự vĩ đại cũng như sự suy vong của triều đại La Mã”, Montesquieu cũng xem xét đến sự liên hệ  giữa  những cơ cấu chính trị  nội tại của La Mã và thế đứng quốc tế của nó. Ông cho rằng triều đại La Mã vươn lên đến tuyệt đỉnh uy lực dựa trên căn bản của các cơ cấu cộng hoà. Nhưng cái chết của thể chế cộng hoà dưới thời Caesar và các vị hoàng đế kế tiếp đã gieo mầm cho sự thối rữa. Ông viết: “Họ (La Mã) chiến thắng nhân dân bằng phương tiện tuyên truyền, nhưng với lối chiến thắng như vậy, nền cộng hoà của họ không thể bền vững. Đó là sự cần thiết để thay đổi chính quyền, và những châm ngôn trái nghịch mà chính quyền mới xử dụng sẽ làm cho sự sụp đổ lớn lao”.
 Nền học thuật thời nay cũng ủng hộ cái ý tưởng cho rằng các nền dân chủ vươn tới sự lãnh đạo. Các nhà kinh tế Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A Robinson nhận định rằng các quốc gia với những định chế kinh tế bao quát, tức là một cơ cấu kinh tế  cung cấp sự an toàn cho các quyền tư hữu và quyền tiến tới các nguồn tài nguyên kinh tế một cách tương đối bình đẳng  cho xã hội trên bình diện to lớn, quốc gia đó tăng trưởng ở tỷ lệ nhanh chóng hơn các đối thủ độc quyền của họ. Các kinh tế gia này tranh luận rằng việc gạt bỏ ra ngoài phần lớn dân số của họ khỏi hoạt động nâng mức tăng trưởng sẽ làm tình  huống xấu đi. Hơn thế nữa, sự chọn lựa cơ cấu kinh tế của một quốc gia thường bị tác động nặng nề từ cái cơ chế chính trị của quốc gia đó. Các quốc gia có cơ chế chính trị mở (các thể chế dân chủ) thường dễ sản sinh ra một cơ cấu kinh tế tốt đẹp bởi vì những kẻ lên nắm quyền thường xuất thân từ thành phần đa số của xã hội và bởi thế, họ thường sẵn lòng bảo vệ các lợi ích kinh tế của xã hội. Thêm vào đó, việc kiềm chế quyền điều hành cho phép các nhà cai trị cam kết việc bảo vệ quyền tư hữu một cách đáng tin tưởng, một yếu tố khuyến khích công dân của họ tham gia vào các hoạt động kinh tế, đầu tư và kế hoạch dài hạn.
Các thể chế dân chủ không chỉ tăng trưởng ở một tỷ lệ nhanh chóng hơn, chúng còn được cho vay mượn dễ dàng hơn khi gặp khó khăn. Kenneth Schultz và Barry Weingast chỉ ra rằng các cơ chế dân chủ thường dễ trở thành những quyền lực tài chánh vì chúng đáng tin cậy. Trong khi các chế độ độc tài có thể tuỳ tiện xù nợ của quốc gia họ, các cơ chế hành chánh dân chủ bị kiềm chế bởi cơ quan lập pháp nội tại, toà án và các lợi ích kinh tế gắn liền với hệ thống chính trị. Điều này giúp họ dễ dàng thu hút nguồn vốn và thả nổi những món nợ lớn ở mức phân lời thấp.
 Tuy nhiên, lợi ích của dân chủ vượt quá khỏi lãnh vực kinh tế để ảnh hưởng đến các vấn đề quân sự. Các nhà nghiên cứu chính trị nghĩ rằng các nhà lãnh đạo dân chủ thường do dự khi từ bỏ những cam kết với đồng minh vì họ lo sợ phải trả giá đắt cho thanh danh cả trong lẫn ngoài nước. Với lý do này, các chế độ dân chủ ngày càng tạo nên khối đồng minh rộng lớn hơn, bền bỉ hơn và đáng trông cậy hơn. NATO là một ví dụ cụ thể nổi bật. Thêm vào đó, cái lý thuyết dân chủ hoà bình này giúp cho các chế độ dân chủ bớt đi các cuộc chiến tranh, ít nhất là với các chế độ dân chủ khác. Quan trọng hơn, họ có nhiều cơ may chiến thắng hơn khi  có chiến tranh. Quả thực, kể từ 1815, các thể chế dân chủ đã thắng trận với tỷ lệ 77% các cuộc xung đột so với 45% của các chế độ độc tài. Các nhà nghiên cứu chính trị Dan Reiter và Allan Stam nhận định rằng nền dân chủ đạt được hiệu quả hơn trong vấn đề chiến tranh bởi họ thừa hưởng một luồng thông tin tự do dồi dào  và, với một con mắt lo lắng cho cái thùng phiếu bầu, họ sẽ cố không dính vào những tranh chấp có thể bị thua cuộc. Một số khác tán dương các phẩm chất siêu việt của người chiến sĩ dân chủ, của  một quân đội có sự kiểm soát của dân sự và có những đồng minh mạnh mẽ.
Dĩ nhiên, cũng như trong bất cứ lãnh vực hàn lâm nào khác, những lý luận trên vẫn là chủ đề cần tranh luận. Tuy nhiên, có lửa mới có khói, vẫn còn có nhiều lý do hơn để tin rằng dân chủ có gì đó khác biệt.
Những lợi ích của nền tảng dân chủ vượt ra khỏi điều tầm thường. Đúng hơn, nó đi vào tâm điểm  cái khả năng của một quốc gia có thể tồn tại và tích luỹ quyền lực hay không trong một hệ thống quốc tế không có chính phủ.  Trong tác phẩm cổ điển “Chiến tranh và sự thay đổi trong chính trị thế giới”, Robert Gilpin tranh luận rằng những tỷ lệ khác biệt của sự tăng trưởng kinh tế là cái quyết định chính yếu của những chuyển biến quyền lực trong số các quyền lực vĩ đại. Tính trung tâm tới các thị trường  tư bản quốc tế cũng là một nguồn quan trọng khác.  Khả năng vay mượn cho phép các quốc gia hỗ trợ tài chính cho việc gia tăng vũ trang và các cuộc chiến tranh lớn  vượt khỏi sự thu nhập bình thường. Thêm nữa,  việc tiếp cận dễ dàng khả năng tín dụng  cho phép các quốc gia khai triển chính sách ổn định thuế má, cung cấp cho các khoản chi tiêu quá mức qua việc mượn nợ thay vì qua việc tăng thuế, một việc làm giảm bớt những gián đoạn kinh tế và xã hội. Nền cộng hoà Hoà Lan là một thí dụ điển hình của một quốc có thể vươn tới  một ưu thế địa chính vào thế kỷ 17 nhờ vào khả năng vay được tín dụng rẻ.  
Chính trị thân hữu cũng là một đặc điểm  chính khác của sự tranh đua chính trị quốc tế. Các đồng minh hùng mạnh cho phép các quốc gia chia sẻ gánh nặng quốc phòng, cùng an toàn tham gia vào các hế hoạch có tính chiến lược dài hạn đồng thời ngăn cản xung đột quốc tế. Ngược lại, các đồng minh tráo trở và không thể nhờ cậy, hoặc tự cô lập, lại hay bị tước đoạt mất những lợi thế này và thường là nguồn gốc của sự mất an ninh.
Cuối cùng và rõ rệt nhất, đó là các quốc gia thắng cuộc dễ dàng thâu tóm quyền lực hơn những quốc gia thua cuộc. Thắng trận chiến sẽ có thể làm giảm bớt những đe doạ về an ninh, lại có thể gặt hái thêm nhiều ảnh hưởng chính trị và  tới gần các nguồn lực giúp nâng cao vị trí quốc tế của quốc gia. Trái lại, bại trận có thể là cách trực tiếp nhất một quốc gia tụt dốc thế đứng của mình một cách thảm hại.  Thí dụ, năm 1941 Đức sở hữu 20% quyền lực thế giới (theo the Correlates of War Project’s Composite of National Capalities, một phương pháp đo lường chung của các nhà nghiên cứu chính trị gộp chung về thông tin của các tài nguyên kinh tế, nhân khẩu và quân sự lại với nhau). Nhưng đến năm 1945 khi Đức bị bại trong Thế Chiến II, phần quyền lực chia sẻ trên thế giới của Đức hạ xuống chỉ còn 8%. Trong khi cùng thời điểm, nước lãnh đạo phe đồng minh chiến thắng là Hoa Kỳ thấy quyền lực của mình tăng lên tới 14%.  Như Paul Kennedy viết: “sự chiến thắng của một cường quốc hay sự sụp đổ của một cường quốc khác luôn luôn là hệ quả của sự chiến đấu lâu dài của các lực lượng vũ trang”.
Chứng cớ thực nghiệm  hỗ trợ điều đó. Theo các lý thuyết gia về liên hệ quốc tế, quốc gia lãnh đạo trong hệ thống quốc tế trong 400 năm qua luôn luôn ở vào hàng ngũ các quốc gia dân chủ nhất. Danh sách này bao gồm Đế chế cộng hoà Hoà Lan (1609-1713), đế quốc Anh (1714-1945) và Hoa Kỳ (1945- hiện tại). Các quốc gia này có thể không được xếp loại hoàn toàn dân chủ theo định nghĩa đương thời, nhưng được coi là nằm trong những quốc gia tự do nhất vào thời điểm của họ. Thật khó để tranh cãi chống lại một ghi nhận trên 4 thế kỷ chưa bị đánh bại này.
Phân tích có tính thống kê và hệ thống hơn được trích dẫn  bằng những dữ kiện từ 1815 cho đến nay chỉ ra một sự tương quan mạnh mẽ giữa mức độ dân chủ của một quốc gia và sự gia tăng quyền lực thế giới của quốc gia vào thập niên tiếp theo. Bản phân tích cũng  chỉ ra các nối kết  giữa sự tăng trưởng kinh tế, tiếp cận  tín nhiệm quốc tế, các đồng minh thân cận và sự thành bại trong các cuộc ngoại chiến có tác động đến những thay đổi quyền lực kế tiếp. Thí dụ như vào 1816, năm đầu tiên ghi lại dữ kiện chia sẻ quyền lực toàn cầu có hiệu lực, Hoa Kỳ có được 4%, Russia 16%. Vào năm 2007, vị trí của 2 nước thay đổi ngược lại: Hoa Kỳ 14% và Russia 4%. Tỷ lệ mới đây của China dường như khá ấn tượng, nhưng nó chỉ bật mạnh lên sau nhiều thập niên bị tụt dốc thảm hại. Vào 1860, China có tới 19% quyền lực toàn cầu, nhưng rơi xuống 9% vào những năm 1950s. Mặc dù đã vươn dậy trong những năm qua, nó vẫn chưa hồi phục ngang mức độ thế kỷ 19. Trong cùng lúc, đối thủ India dân chủ của nó tiếp tục gia tăng quyền lực toàn cầu của mình một cách đều đặn. Nói chung, cả lý thuyết và chứng cớ đều nhận định rằng các thể chế dân chủ làm tốt hơn trong các cuộc tranh đua địa chính dài hạn.
Luận thuyết dân chủ thống trị đề xuất rằng Hoa Kỳ có một lợi thế chủ yếu trong cuộc tranh đua chiến lược với China: đó là các cơ cấu của Hoa  Kỳ. Nếu luận thuyết này là đúng, cái hệ thống chính trị mở của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cung cấp những tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trong dài hạn, bước tiến tốt đẹp hơn tới gần những thị trường tài chánh quốc tế, tới các đồng minh mạnh mẽ và sự tiến hành siêu việt trong các cuộc khủng hoảng quốc tế và chiến tranh. Ngược lại, đối với China, sự trì trệ trong chính trị sẽ gây hậu quả trì trệ về địa chính và kinh tế. Quả thực, cái cơ chế xơ cứng của đảng cộng sản Trung Quốc rõ ràng đã tác động đến những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc nâng cao vị thế quốc tế của mình, và mọi việc trở nên tồi tệ hơn khi Tập Cận Bình xiết chặt thêm quyền lực của ông ta. Từ nhận thức này, nhiều dấu chỉ thời hạn gần đây do các chuyên gia nghiên cứu đánh giá tình trạng ganh đua quốc gia, chẳng hạn như tình trạng điều hành kinh tế và các liên hệ giao lưu, tự chúng đã là kết quả của những cơ cấu chính trị nội tại.
Triển vọng kinh tế của Hoa Kỳ liên hệ với China tiếp tục mạnh mẽ. China vừa mới qua mặt Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế to lớn nhất nếu chỉ so sánh sự đo lường trên sức mua bán, nhưng sự đo lường này trở thành vô dụng trong việc phân định ảnh hưởng toàn cầu. Điều chỉnh số lượng GDP (tổng sản lượng quốc gia) để giả định rằng việc hớt tóc ở Bắc Kinh cũng đắt đỏ tương đương với San Francisco có hữu ích cho vài sự so sánh kinh tế, nhưng điều đó không cho phép China mua được nhiều hàng không mẫu hạm hơn. Trên danh nghĩa, GDP của Hoa Kỳ là 17 ngàn tỷ đô la, khoảng 22% GDP toàn cầu. China vẫn ở khoảng cách xa với 10 ngàn tỷ, chiếm khoảng 13%. Như đã ghi nhận ở trên, một số chuyên gia dự đoán rằng, cứ theo xu hướng hiện thời, China có thể sẽ qua mặt Hoa Kỳ để thành nền kinh tế toàn cầu lớn nhất vào nằm 2021, nhưng dự đoán này hiện dễ bị bẻ gãy. Hơn nữa, sự thịnh vượng thực sự mới chính là cái GDP đáng tranh luận quan trọng hơn cho việc  gây ảnh hưởng quốc tế, như Derek Scissors thuộc Tổ Chức Doanh Nghiệp Hoa Kỳ (AEI) cho thấy: Hoa Kỳ dẫn trước China trong phân loại này ở mức khổng lồ 42 ngàn tỷ đô la, và khoảng cách còn có thể tăng hơn nữa.
Điều chắc chắn, đảng cộng sản Trung Quốc đã có thể thành công đáng kể trong cái tỷ lệ tăng trưởng trong nhiều thập niên bằng cách di chuyển tài nguyên từ những nơi kém hiệu quả  đến chỗ có hiệu quả hơn (chủ yếu là sức lao động chuyển từ ngành nông sang ngành kỹ nghệ chế tạo sản xuất và qua sự đầu tư công cộng với khối lượng lớn, nhưng cái mô hình tăng trưởng kinh tế khai khoáng này đang đi đến giới hạn kiệt sức. Đi lên từ một đất nước nghèo nàn lạc hậu để thành một quốc gia có lợi tức trung bình là một chuyện, nhưng nhảy vọt lên để thành một nền kinh tế tiên tiến lại là chuyện khác. Dường như không có gì bảo đảm là China sẽ duy trì mãi sự tăng trưởng  kinh tế ở tỷ lệ  hai con số; và quả nhiên, chính từ miệng của Tập Cận Bình nói ra rằng, tỷ lệ tăng trưởng của China chậm lại là chuyện bình thường. Bởi vậy, các kế hoạch hiện tại của China là đặt ưu tiên việc đổi mới kinh tế trước việc tăng trưởng. Thế nhưng đảng cộng sản Trung quốc chỉ có thể đi tới gìới hạn đổi mới hệ thống mà không muốn hạ  thấp  quyền cai trị của đảng. Đây là lý do tại sao các chính thể độc tài gặp khó khăn trong việc duy trì sự tăng trưởng trong thời gian dài. Quả thực, sự vo tròn bóp méo nền kinh tế dưới tay đảng cộng sản có thể nhìn thấy khắp nơi, từ việc không sẵn lòng chấp nhận việc đổi mới lao động cần thiết tới việc cố duy trì  vai trò có kích thước quá lớn của những doanh nghiệp quốc doanh không hữu hiệu. Nói ngắn gọn theo kiểu Damien Ma là: “Bức màn đã khép lại trên thời đại tăng trưởng nhanh chóng tại China”.
Mặt khác, các cơ chế của Hoa Kỳ là nguyên tố cho sự lan toả và tình trạng kinh tế của Hoa Kỳ luôn nhìn lên. Hoa Kỳ  tận hưởng sự hồi phục kinh tế hậu 2008  theo bất cứ nền kinh tế tiên tiến nào và đạt được tỷ lệ tăng trưởng thường niên 5% vào tam cá nguyệt thứ ba năm 2014. Sự thay đổi từ căn nguyên là đặc điểm của nền kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ đưa đến sự phát triển sản xuất dầu đá phiến, một kỹ thuật mới đưa Hoa Kỳ trở lại thành một siêu cường về năng lượng toàn cầu. Hơn nữa, còn có nhiều  hưá hẹn  với các cách mạng kinh tế tương lai liên quan tới các kỹ thuật tân kỳ đang từ từ xuất hiện như kỹ thuật in 3D ( 3 chiều).
Trong lãnh vực tài chánh toàn cầu, vị trí của Hoa Kỳ rõ ràng không có chỗ để công kích. Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí trung tâm của thế giới tài chánh quốc tế.  Nó vẫn là thực thể cho vay toàn cầu tối hậu và đồng đô la Mỹ vẫn là tiền tệ dự trữ toàn cầu. Hoa Kỳ được công nhận như một nền kinh tế đáng tin và năng động nhất. Mọi quốc gia cảm thấy bảo đảm trong việc vay mượn từ Hoa Kỳ. Khi các nhà đầu tư  bàn đến việc tìm tới sự an toàn, điều đó có nghĩa là đưa tiền bỏ  vào ngân khố phiếu Hoa Kỳ. Không ai nghĩ rằng họ có ý liên hệ tới việc mua trái phiếu China.
Đúng là China đang nắm giữ một số lượng dự trữ ngoại tệ trao đổi khổng lồ với kỳ vọng trở thành kẻ cho vay  tối hậu trong khu vực, với hiện tại có mức độ cho vay nhiều tiền hơn Ngân Hàng Thế Giới (WB). Nhưng đảng cộng sản Trung Quốc lại rất do dự trong việc chịu đổi mới thị trường, một điều cần thiết để trở thành một quyền lực tài chánh thực sự. Dòng chảy tự do của vốn, sự hoán đổi tiền tệ, sự thiết lập các tổ chức tài chánh ngoại quốc, sự tranh đua trong lãnh vực ngân hàng, sự dễ dãi trong việc đầu tư và trong công việc làm ăn ở China tất cả đều có vấn đề. China thiếu một thị trường vận hành công trái đô thị, và kết quả là có một khoản nợ công khổng lồ (lên tới 58% GDP) đang trở nên một trái bom tài chánh nổ chậm. Các viên chức Bắc Kinh đã kêu gọi thay thế đồng đô la (Mỹ) hiện đang là bản tệ dự trữ toàn cầu. Tuy nhiên, với sự vắng bóng một thị trưòng tài chánh mở cửa, sâu rộng và luân lưu, đồng nhân dân tệ (Yuan) còn lâu lắm mới hất cẳng nổi đồng đô. Khu vực thương mại tự do Thượng Hải được thiết lập năm 2013 cho việc đổi mới tài chánh như một thử nghiệm, nhưng cuộc thử nghiệm là một thất vọng. Một lần nữa, ưu tiên hàng đầu cho sự tồn vong của chế độ đã cản trở bước thực thi đổi mới. Tóm lại, Bắc Kinh thiếu vắng một loại cơ chế tài chánh có sức đẩy tới và duy trì sức bền bỉ của những cường quốc  trong quá khứ. Nói cách đơn giản, thị trường tài chánh không  có cửa để thăng tiến nổi trong các quốc gia độc tài.
Về phương diện ngoại giao, Hoa Kỳ là quốc gia lãnh đạo trong hệ thống  các tổ chức quốc tế  được thiết lập sau Thế Chiến 2. Hoa Kỳ sở hữu một mạng lưới toàn cầu các đồng minh bao gồm trên 30 các quốc gia giàu có nhất và có thể chế dân chủ được quản trị tốt nhất; cộng chung lại, họ tạo nên hơn một nửa GDP của cả thế giới. Mặc dù có phần nào đó bị hoen ố trong những năm gần đây, cái mô hình và văn hoá Mỹ Quốc vẫn là nơi cung cấp hàng đống loại quyền lực mềm chất thành núi. Trái lại, China hầu như không có bạn hữu chân tình. China đang cố gắng đi vòng quanh cái trật tự thế giới do Hoa Kỳ dẫn đầu, nhưng những cố gắng vụng về của China để cố mua chuộc các quốc gia đứng ngoài cái trật tự này ở châu Phi, Nam Mỹ và vài nơi khác đã gần như khuấy động lên sự oán hận  không thua kém phần ảnh hưởng mà nó đạt được. Bắc Hàn, quốc gia đồng minh duy nhất của China chỉ là một vùng kinh tế què cụt cai trị bởi kẻ độc tài dị hợm. Cho đến nay, sự tránh né liên kết của Bắc Kinh được coi như là vấn đề chính sách. Nhưng để trở thành một quyền lực bá chủ toàn cầu, China cần có đồng minh và cộng sự. Tuy nhiên, trong tương lai gần, thật khó để thấy China có thể tạo dựng nên nhiều thân hữu chính trị hùng mạnh  bên ngoài, phần lớn chính vì cái nền chính trị độc  đoán trong nước. Văn Phòng Quốc Gia Nghiên Cứu Á Châu (NBAR) báo cáo rằng “Càng ngày càng khó khăn cho chính quyền trong việc ngăn chặn lại những hồ sơ (vi phạm) các quyền tự do chính trị và dân sự để tránh ảnh hưởng đến sự tín nhiệm quốc tế của China”. Đơn giản là các quốc gia tự do sẽ không bao giờ tín nhiệm một quốc gia độc tài dẫn đầu thế giới.
Tuy nhiên, lợi điểm đáng chú ý nhất của Hoa Hỳ là sự ưu việt trong chỉ huy quân sự. Trong lúc thật sự khả năng chống cự lại của China gây khó khăn rất nhiều cho bộ chỉ huy quân sự Thái Bình Dương Hoa Kỳ thẩm định quyền lực tại Á châu, thì ngay chính các viên chức của quân đội giải phóng nhân dân China (PLA) cũng nhận thức rằng China sẽ chỉ có thể có một lực lượng quân sự toàn cầu sớm nhất vào năm 2050. Vì vậy, cho đến khi các phân tích gia quân sự quan tâm đến  sự xung đột Hoa Kỳ - China ở tại Bắc Mỹ, thì việc bàn đến một trật tự quân sự thế giới lưỡng cực đều là quá sớm. Tuy nhiên, ngay tại khu vực phía Tây Thái Bình Dương cũng có lý do để người ta hồ nghi sức mạnh quân sự đang lên của China. Lực lượng quân đội China là một tổ chức khét tiếng tham nhũng do bởi sự chi phối của đảng cộng sản đã hạ thấp tính năng chuyên nghiệp về quân sự của nó. China chắc chắn đang mua sắm những ‘đồ chơi’ nặng ký, nhưng khả năng của lực lượng chiến đấu trên chiến trường đang là một dấu hỏi lớn. Hơn nữa, sự thiếu vắng một diễn tiến an ninh quốc gia được cơ quan hoá gây hậu quả  là các quyết định bị lơ là không để ý tới. China liên tục kinh ngạc bởi các phản ứng tiêu cực mạnh mẽ của quốc tế phản đối lại các chính sách khẳng định của China, bao gồm cả phản ứng của Hà Nội trong việc China kéo giàn khoan dầu vào vùng đang tranh chấp gần bờ biển Việt Nam năm 2014. Có thể giàn khoan đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng với giá đắt là sự sứt mẻ bang giao hai nước. Từ khi đó, liên hệ giữa Washington và Hà Nội trở nên thăng tiến hơn với việc  Hoa Kỳ loan báo sẽ gỡ bỏ lệnh cấm buôn bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Sau những thất bại của Hoa Kỳ tại Iraq và Afghanistan, dường như có vẻ hợp lý để chỉ ra  những giới hạn của quyền lực quân sự của Mỹ, nhưng  cái dòng luân lưu tự do thông tin trong việc xây dựng chính sách an ninh quốc gia, mối quan hệ dân – quân  êm thắm, nhân viên quân sự  các cấp chuyên nghiệp và có trinh độ tay nghề cao, thế ưu việt quân sự được tập trung và lại có một lực lượng đồng minh toàn cầu áp đảo, tất cả tạo nên những lợi thế quân sự ghê gớm cho Hoa Kỳ. Một số người phản biện rằng, khi  cân bằng các ưu khuyết của hai phía sẽ thấy lợi thế nghiêng về China trong bất cứ tình huống bất ngờ nào tại Đông Á, nhưng cái cổ phần lớn hơn của Đức quốc Xã ở Âu châu vào thời kỳ Thế Chiến 2 đã chứng tỏ nó vẫn không cân xứng với uy lực quân sự của Mỹ và các đồng minh hợp lực. Các nhà hoạch định quốc phòng China phải nhận biết rõ ràng sự kiện là Hoa Kỳ chưa lần nào thua một cuộc chiến trực diện giữa 2 quốc gia. Nếu sự vươn lên của China tạo nên một Thế Chiến 3, cả về lý thuyết và lịch sử đều nhận định rằng điều đó là tai hoạ  cho Bắc Kinh.
Vào thế kỷ trước, Hoa Kỳ đã lấy việc giải phóng chính trị  khắp thế giới là một phần trong cái chiến lược to lớn của mình, và cũng không quá lâu trước đây, những nhà làm chính sách Hoa Kỳ công khai kêu gọi  China nên có một sự tiến hoá  hoà bình về chính trị theo chiều hướng dân chủ hơn. Tuy nhiên, trong mấy năm qua, việc cổ vũ cho dân chủ và nhân quyền đã bớt ưu thế trong việc hàng ngày thực thi chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với China, do bởi chương trình nghị sự song phương đã làm việc trên số lượng gia tăng các vấn đề liên hệ đến khu vực và cả toàn cầu. Dù vậy nhiều người Hoa Kỳ vẫn nấp dưới cái kỳ vọng dài hạn là cuối cùng  một nền dân chủ cho China cũng phải đến. Quả thực, ít ai nghĩ rằng sẽ có một sự ổn định thật sự lâu dài, hoặc một sự cộng tác sâu rộng và bền bỉ giữa 2 quốc gia mà không cần có những thay đổi chính trị cơ bản của Bắc Kinh.
Những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do tranh luận rằng mục tiêu dài hạn của  chiến lược Hoa Kỳ nên tìm cách kết hợp Bắc Kinh vào hệ thống toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo một cách hoà bình. Theo nhận thức này, sự gia tăng việc tương tác qua thị trường và các cơ cấu quốc tế sẽ nâng cao tầm khuyến khích cho sự cộng tác. Khi China phát triển kinh tế, tầng lớp trung lưu đang lớn mạnh của China sẽ tự nhiên đòi hỏi có tiếng nói trong chính trị, dẫn tới một chuyển biến dân chủ không thể tránh khỏi. Lý thuyết dân chủ trong hoà bình cho chúng ta biết rằng, một China dân chủ sẽ cộng tác nhiều hơn và ít nghiêng về xu hướng chiến tranh hơn, hoàn tất việc quốc tế hoá China vào trong một trật tự quốc tế đặt căn bản trên luật lệ hoà bình hơn.
Một số khác tranh luận rằng mục tiêu tối hậu của chính sách Hoa Kỳ cần làm là duy trì tính ưu việt của mình, và họ cũng nhìn thấy vai trò quan trọng trong việc dân chủ hoá China. Có lẽ quá chú trọng đến việc suy diễn từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt, họ cho rằng, cũng giống hệt như sự sụp đổ của Liên Xô, đảng cộng sản China rồi cũng bị diệt vong, dẫn theo cái chết của một kẻ thù và như vậy, kỷ nguyên Hoa Kỳ sẽ  kéo dài vô tận. Nhiều nhà tân bảo thủ có khuynh hướng đặt cược lớn vào đặc tính nội tại của các chế độ cũng thường coi một China dân chủ sẽ bớt hung hăng hơn và vì thế bớt đe doạ đến vị thế hàng đầu của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, tất cả những nhận thức trên có thể quá lạc quan vì cùng một lý do: một chuyển biến êm đẹp qua thể chế dân chủ ở China có thể thực sự tạo nên một số thách đố nghiêm trọng cho Hoa Kỳ. Không như dưới chế độ cộng sản, một China dân chủ sẽ không sợ phải trải qua những đổi mới kinh tế. Điều này sẽ làm tăng khả năng Bắc Kinh cuối cùng sẽ thừa nhận những cơ cấu kinh tế cần thiết để trở thành lực lượng kinh tế vô địch không đối thủ. Có được những tổ chức kinh tế có tầm vóc ổn định và những luật lệ bảo vệ chính trị chống lại các quyết định tài chánh độc đoán, Thượng Hải sẽ không khó khăn để thay thế New York thành một trung tâm tài chánh toàn cầu mới  và đồng nhân dân tệ sẽ chiếm vị trí tiền tệ dự trữ mới. Một China dân chủ tự do cũng sẽ có thêm quyền lực mềm trong các quan hệ ngoại giao. Các quốc gia lân bang sẽ bớt sợ hãi, như vậy, một China tự do sẽ có thể thiết lập các mạng lưới của mọi cơ cấu tổ chức và có các đồng minh chính trị đầy đủ ý nghĩa.  Như vậy, chỗ đứng của Hoa Kỳ có thể sẽ lung lay bởi vì các quốc gia trong khu vực không còn cần tìm kiếm sự bảo vệ của Hoa Kỳ chống lại mối đe doạ của một China cộng sản. Cuối cùng, cái diễn tiến về những quyết định trọng yếu trên những vấn đề an ninh quốc gia được đổi mới và một tập hợp quân đội ít tham nhũng hơn sẽ cho phép China điều chỉnh đường lối ngoại giao và chiếm ưu thế trong chiến đấu một khi ngoại giao thất bại. Tóm lại, một China tự do dân chủ sẽ có vị trí tốt hơn để chiếm đoạt ngôi vị ưu việt toàn cầu từ tay Hoa Kỳ, trong khi một đảng cộng sản độc tài có vẻ làm xáo trộn sự vươn lên của China hơn.
Ở thời điểm hiện tại, đa số tranh luận về China tại Hoa Kỳ dường như giả thiết rằng mọi điều tốt lành sẽ đi chung với nhau, nhưng đây lại là trường hợp hiếm hoi. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có thể đối diện một điều khó xử quan trọng và khó khăn khi họ suy tính đến một chiến lược dài hạn đối với China. Một mặt, Washington có thể hy vọng, hay nhiệt tình cổ vũ cho sự dân chủ hoá China trong một nỗ lực giải phóng China và giúp nước này cộng tác với quốc tế mạnh mẽ hơn, nhưng lại tăng thêm phần rủi ro là Hoa Kỳ sẽ cuối cùng phải bàn giao cái chìa khoá làm chủ toàn cầu cho Bắc Kinh. Mặt khác, Washington có thể phải chấp nhận sự cai trị của đảng cộng sản Trung quốc nếu muốn giữ lại kỷ nguyên Mỹ Quốc, nhưng với cái giá phải trả là sống chung với một China độc tài, gây rối và hiếu chiến. Nhưng có lẽ, điều phân vân khó khăn nhất lại nằm ở trong tay những độc  giả ở Bắc Kinh. Đảng cộng sản Trung Hoa có thể tiếp tục nắm quyền lực ở China, nhưng như vậy là nó được ủy thác để cai trị một đất nước chỉ nhắm tới thân phận bậc hai. Hoặc là China có thể trở nên một lãnh đạo thế giới thật sự qua việc  từ bỏ quyền lực của đảng cộng sản Trung Hoa, và sự thiết lập  một hệ thống chính trị dân chủ, qua nhiều thế kỷ đã chứng tỏ rằng đó là điều kiện tiên quyết cho sự thống trị quốc tế lâu dài.




Why Democracies Dominate: America’s Edge over China

Matthew Kroenig


 Trang nhà | Diễn đàn | Thơ văn Phiếm luận | Dịch thuật Phê bình